Ảnh hưởng của Natri Humate và Probiotics đối với tôm thẻ chân trắng

26-09-2023
Nghiên cứu này đánh giá tác động của natri humate và chế phẩm sinh học lên sự tăng trưởng, hoạt động của enzym và cộng đồng vi sinh vật ở tôm thẻ chân trắng. Kết quả cho thấy rằng natri humat có thể được sử dụng như một chất phụ gia có lợi cho nước nuôi tôm thẻ chân trắng.


Tôm thẻ chân trắng. Ảnh: BioSpring

Natri humate là muối natri của axit humic, phân bố rộng rãi trong tự nhiên và có thể chiết xuất từ than bùn. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng dung dịch natri humate có thể loại bỏ lưu huỳnh dioxide và nitơ dioxide, đồng thời có thể hấp phụ các chất ô nhiễm và kim loại nặng, vì vậy nó được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp sinh học và kiểm soát ô nhiễm.

Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng việc bổ sung axit humic trong chế độ ăn có thể cải thiện chất lượng thịt cá và các thông số miễn dịch của cá hồi vân và cá rô phi, ngoài ra còn có khả năng chống viêm, chống vi khuẩn, thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện tỷ lệ sống, ngăn cản sự ô nhiễm nguồn nước…. Tuy nhiên, rất ít báo cáo nghiên cứu điều tra lợi ích của natri humate trong nuôi tôm.

Nghiên cứu bao gồm ba nhóm với ba lần lặp lại cho mỗi nhóm. Nhóm A là nhóm đối chứng không bổ sung bất kỳ chất nào; nhóm B là nhóm thử nghiệm có 3 mg/L natri humate trong nước nuôi cấy; nhóm C là một nhóm thử nghiệm khác có 3 mg/L natri humate và 105 CFU/mL men vi sinh (Lysinibacillus, Bacillus subtilis). Natri humate được bổ sung mười ngày một lần và men vi sinh được bổ sung một lần khi bắt đầu thí nghiệm, thời gian thí nghiệm là 43 ngày.

Trong nghiên cứu này, việc bổ sung natri humate với chế phẩm sinh học vào nước nuôi đã thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện tỷ lệ sống của L. vannamei và giảm hệ số chuyển đổi thức ăn, FCR. Tỷ lệ sống của tôm ở nhóm B (88,44%) và C (86,07%) cao hơn nhóm ĐC (79,11%), nhóm B cao hơn rõ rệt so với nhóm ĐC (P<0,05 ). Trọng lượng cơ thể cuối cùng (FBW) của tôm trong nhóm B và C là (2,12 ± 0,03) g và (1,90 ± 0,15) g, và tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) là (4,35 ± 0,04%/d) và (4,09 ± 0,21%/d), cao hơn hẳn so với lô đối chứng ( P< 0,05). Ngoài ra, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) của tôm nhóm B và C lần lượt là 1,20 và 1,45, thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng ( P< 0,05).


Ảnh hưởng của sodium humate (B) và sodium humate với Probiotics (C) đến năng suất tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng L.vannamei. Ảnh: frontiersin.org

Điều này có thể liên quan đến cách chế phẩm sinh học được thêm vào, chỉ một lần khi bắt đầu thử nghiệm. Hơn nữa, nitơ amoniac ở một nhóm thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng ở ngày 15. Việc bổ sung natri humate với chế phẩm sinh học có thể làm giảm sự tích tụ nitơ amoniac ở một mức độ nhất định trong nước nuôi, do đó cải thiện sự tăng trưởng và sức khỏe của tôm.

Trong nghiên cứu, cả enzym tiêu hóa đường ruột và một số enzym miễn dịch gan tụy của tôm (SOD, PO, lysozyme) trong nhóm thí nghiệm đều tăng ở các mức độ khác nhau so với nhóm đối chứng, và tất cả các enzym (amylase, lipase, trypsin) đo được ở nghiệm thức natri humate đều cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Điều này chỉ ra rằng việc bổ sung natri humate vào nước nuôi sẽ cải thiện khả năng tiêu hóa và miễn dịch không đặc hiệu của tôm thẻ chân trắng.


Ảnh hưởng của sodium humate (B) và sodium humate với Probiotics (C) amylase ruột (A), lipase (b), trypsin (C) và gan tụy SOD (D), PO (E), CAT (F) ) và lysozyme (G) của L. vannamei. Ảnh: frontiersin.org

Sự đa dạng vi khuẩn trong nước nuôi đóng một vai trò quan trọng trong sự ổn định của môi trường nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chỉ số đa dạng của hệ vi sinh nước ở các nhóm thí nghiệm cao hơn so với nhóm đối chứng. Nhóm natri humat cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng, cho thấy rằng natri humat như một nguồn cacbon làm tăng sự phong phú của cộng đồng vi sinh vật nước.

Trong nghiên cứu hiện tại, các chỉ số của hệ vi sinh vật nước ở lô thí nghiệm đều cao hơn lô đối chứng. Nhóm natri humate cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng, cho thấy rằng natri humate như một nguồn carbon làm tăng sự phong phú của cộng đồng vi sinh vật nước. Pseudo Hongiellagen trong nước nuôi ở các nhóm thử nghiệm cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng, suy ra rằng natri humate và men vi sinh có thể gián tiếp cải thiện việc sử dụng chất hữu cơ trong nước nuôi.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc bổ sung natri humate vào nước nuôi giúp tăng cường khả năng tăng trưởng, các enzym tiêu hóa và một số hoạt động của enzym miễn dịch, cải thiện sự phong phú của cộng đồng vi sinh vật nước của L. vannamei. Nhìn chung, natri humate có thể được sử dụng như một chất phụ gia có lợi cho nước nuôi tôm thẻ chân trắng.

Theo Frontiers

Đăng ngày 31/08/2023
Minh Minh - tepbac.com